Những điểm mới trong quan điểm xây dựng, phát triển đất nước của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng
Đại hội Đảng lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên phát triển mới, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.
Đại hội sẽ diễn ra trong bối cảnh thế giới có sự thay đổi mang tính thời đại, với những thời cơ, vận hội mới; đồng thời, cũng chứa đựng những nguy cơ, thách thức gay gắt. Tuy nhiên, với thế và lực đã tích luỹ sau 40 năm đổi mới cùng sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đặc biệt là sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc trong soạn thảo Văn kiện Đại hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, nội dung văn kiện Đại hội nói chung, Báo cáo Chính trị trình Đại hội nói riêng đã kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó, có những điểm mới căn bản, mang tính đột phá trong quan điểm xây dựng, phát triển đất nước, thể hiện ở những điểm sau:

Đại hội Đảng XIV của Đảng sẽ mở ra kỷ nguyên xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc
Thứ nhất, trong phần dự báo tình hình thế giới và trong nước, trên cơ sở phân tích sâu sắc những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nhấn mạnh: Bối cảnh thế giới đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại: “Cục diện thế giới đang chuyển biến nhanh, phức tạp chưa từng có theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng, phân mảnh và phân tuyến mạnh. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều thách thức mới”[1].
Bên cạnh đó: “… chủ nghĩa bảo hộ, chính sách thuế quan áp đặt, nguy cơ chiến tranh thương mại đi đôi với xu hướng điều chỉnh chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu”, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi và chứa đựng những khó khăn, thách thức lớn đan xen.
Ở trong nước: “Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” và những quyết sách mang tầm chiến lược, có tính bước ngoặt như: “Đổi mới, xây dựng và thi hành pháp luật; đột phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập quốc tế; đột phá về phát triển giáo dục, đào tạo; về chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân...”[2] đang mở ra cơ hội lịch sử, tạo ra vận hội mới mang tính lịch sử trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đó là những dự báo mang tầm chiến lược. Thực tiễn lịch sử cho thấy, việc đánh giá tình hình thế giới trong nước (thời cuộc) đúng, chuẩn xác sẽ tạo tiền đề cho việc hoạch định đường lối đúng đắn, sát hợp với thực tiễn đất nước, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Thứ hai, trong quan điểm thứ nhất, cùng với việc tiếp tục khẳng định những kiên định đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu ra, dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII bổ sung một điểm mới căn bản, đó là: lý luận về đường lối đổi mới.
Hệ thống lý luận đó được hình thành trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện thực tế công cuộc đổi mới của đất nước; đồng thời, là kết quả của việc không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước trong 10 năm (1986-1996), cũng như lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế (từ năm 1996 đến nay), cùng với việc từng bước hình thành những vấn đề lý luận trên những lĩnh vực cụ thể như: Lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lý luận về xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam, lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lý luận về Đảng cầm quyền…
Tổng thể những vấn đề lý luận chung và lý luận trên các lĩnh vực cụ thể kết thành lý luận về đường lối đổi mới. Đó chính là sự kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, đúng với quan điểm biện chứng của triết học Mác - Lê nin: Lý luận mở đường cho thực tiễn, qua thực tiễn sẽ kiểm nghiệm và soi sáng lý luận; từ đó, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện và nâng tầm lý luận.
Trên cơ sở của sự phát triển về lý luận và thực tiễn của 40 năm đổi mới, dự thảo Báo cáo chính trị đã bổ sung lý luận về đường lối đổi mới là một bộ phận cấu thành của nền tảng tư tưởng của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới. Đó chính là thành tựu lý luận quan trọng nhất của Đảng trong thời kỳ đổi mới - lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành quả lý luận đó cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong thực tiễn đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần tạo ra thế và lực, tạo nền tảng để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta từng bước hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc trong kỷ nguyên phát triển mới.
Thứ ba, trong quan điểm thứ hai, dự thảo Báo cáo Chính trị đã bổ sung: “phát triển xã hội” và “bảo vệ môi trường” cùng với “phát triển kinh tế” là nhiệm vụ trung tâm thay cho chỉ coi “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm”, như các kỳ Đại hội Đảng trước đã xác định. Điều này cho thấy sự phát triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng về vấn đề phát triển bền vững. Đến thời điểm này, nhận thức của Đảng đã tiến kịp bước tiến của thời đại. Bởi lẽ, trong quan niệm chung của thế giới, khái niệm phát triển bền vững gồm 3 trụ cột: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Điểm bổ sung này là hợp lý, bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững và phù hợp với mục tiêu phát triển bao trùm: Mọi người dân đều được hưởng thành quả của sự phát triển. Hơn nữa, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: Hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất của Nhân dân, phải “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong mỗi bước đi và cả quá trình phát triển”; đồng thời, bảo vệ môi trường để đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Trên bình diện quốc tế, vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết, mang tính toàn cầu, là nhiệm vụ chung của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Là đất nước chịu nhiều tổn thất từ thảm họa của môi trường, Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của vấn đề môi trường. Vì thế, việc xác định bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm, một mặt thể hiện rõ trách nhiệm của Việt Nam; mặt khác, cũng là thông điệp gửi tới các quốc gia trên thế giới về sự cam kết, sẵn sàng hợp tác, nỗ lực giải quyết để bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại vì lợi ích của chính mình và lợi ích cộng đồng.
Cũng trong quan điểm thứ hai, một nội dung quan trọng được dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung là: “… đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên” cùng với “tăng cường quốc phòng - an ninh”. Điều này thể hiện nhận thức của Đảng về vai trò, tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc hơn. Trên thực tế, trong các nhiệm kỳ trước đây, quán triệt chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại... Việt Nam là bạn, là đối tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[3], Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín và vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước, trong đó, có quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược hoặc đối tác chiến lược toàn diện với 38 nước; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng; có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Trong bối cảnh mới, phát huy những thành tựu về công tác đối ngoại và để định vị vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, Đảng xác định: “công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên” nhằm tăng cường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển và nâng tầm ảnh hưởng Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, trong quan điểm thứ ba, một trong những nội dung mới được bổ sung là: “… hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới”. Đây là những vấn đề mới và đặc biệt quan trọng, vừa đúng, vừa trúng nhằm gỡ nút thắt “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” về thể chế để khơi thông mọi nguồn lực, kích hoạt mọi động lực, tạo sự bứt phá trong phát triển kinh tế. Giải quyết được vấn đề này sẽ là “chìa khóa” để Việt Nam thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số trong kỷ nguyên mới.
Cùng với đó, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chính thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo ra sự phát triển đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Những điểm mới căn bản trong quan điểm xây dựng, phát triển đất nước tại dự thảo Báo cáo Chính trị là kết quả lao động nghiêm túc trên cơ sở tổng kết về lý luận và thực tiễn 40 năm đổi mới đất nước và phân tích khách quan, khoa học những diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Kết quả đó tạo tiền đề cho sự thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV sẽ diễn ra vào tháng 01-2026.
PGS.TS Nguyễn Danh Tiên - Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng
S: Hanoimoi.vn